Các biện pháp Kiểm_soát_sinh_sản

Các biện pháp nhân tạo

Các biện pháp nhân tạo có thể hoạt động theo nhiều cách, trong đó có: ngăn cản một cách tự nhiên tinh trùng xâm nhập hệ thống sinh sản nữ; về hormon ngăn cản rụng trứng; khiến hệ thống sinh sản nữ thành nơi không thể trú ngụ với tinh trùng; hay bằng phẫu thuật thay đổi hệ thống sinh sản nữ thành vô sinh. Một số biện pháp sử dụng nhiều hơn một cách thức. Các biện pháp tự nhiên khác biệt về mức độ đơn giản, tính dễ áp dụng và hiệu quả.

Các biện pháp vật chướng ngại

Bao cao su (cuộn lên).

Các biện pháp vật chướng ngại đặt một vật ngăn cản trên đường di chuyển của tinh trùng vào hệ thống sinh sản nữ.

Biện pháp chướng ngại phổ biến nhất là bao cao su nam, một bao bằng latex hay polyurethane phủ ngoài dương vật. Bao cao su cũng có loại cho nữ, được làm bằng polyurethane. Bao cao su nữ có một vòng co giãn ở hai đầu — một vòng phía sau pubic bone để giữ bao ở đúng vị trí, vòng còn lại ở bên ngoài âm đạo. Cervical barrier là các thiết bị hoàn toàn ở trong âm đạo. Xốp tránh thai có một chỗ lõm để giữ nó ở vị trí trên cổ tử cung. Mũ tử cung là dụng cụ tử dung nhỏ nhất. Dựa trên kiểu mũ, nó nằm ở vị trí bằng cách mút vào tử cung hay vào thành âm đạo. Màng chắn khớp vào chỗ phía sau pubic bone người phụ nữ và có một vòng chắc nhưng co giãn được, giúp nó ép vào thành âm đạo.

Chất diệt tinh trùng có thể được đặt vào âm đạo trước khi quan hệ tình dục và tạo ra một màng chắn bằng hoá chất. Chất diệt tinh trùng có thể được sử dụng độc lập hay phối hợp với một chướng ngại tự nhiên.

Các biện pháp hormon

Ortho Tri-cyclen, một nhãn hiệu thuốc tránh thai uống, trong một thiết bị chia thuốc kiểu xoay.

Có nhiều cách sử dụng tránh thai hormon. Các hình thức tổng hợp oestrogenprogestin (tổng hợp progestogen) phối hợp thường được dùng gồm thuốc viên tránh thai phối hợp ("Thuốc viên"), Miếng dán, và vòng tránh thai âm đạo ("Vòng Nuva"). Một hình thức có thể tiêm hàng tháng, Lunelle, hiện không được bán tại Hoa Kỳ.

Các biện pháp khác chỉ chứa một progestin (một progestogen tổng hợp). Chúng gồm thuốc viên chỉ gồm progesterone (POP hay 'minipill'), các loại thuốc có thể tiêm Depo Provera (một công thức dạng cấy của medroxyprogesterone axetat được tiêm vào bắp mỗi ba tháng) và Noristerat (Norethindrone axetat được tiêm vào bắp mỗi 8 tuần), và implant tránh thai. Viên thuốc chỉ chứa progestin phải được sử dụng ở khoảng thời gian chính xác mỗi ngày hơn so với các viên thuốc phối hợp. Viên thuốc tránh thai dạng cấy đầu tiên, Norplant 6 viên nguyên bản, đã bị loại bỏ khỏi thị trường Hoa Kỳ năm 1999, dù một loại thuốc cấy một viên duy nhất mới hơn được gọi là Implanon đã được cho phép bán tại Hoa Kỳ ngày 17 tháng 7 năm 2006. Các biện pháp chỉ sử dụng progestin khác nhau có thể gây ra chảy máu bất thường khi sử dụng.

Ormeloxifene (Centchroman)

Ormeloxifene (Centchroman) là một selective estrogen receptor modulator, hay SERM. Nó khiến việc rụng trứng xảy ra không đồng thời việc thành tạo màng tử cung, ngăn cản hợp tử cấy vào tử cung. Nó đã được chấp nhận rộng rãi như một biện pháp kiểm soát sinh sản tại Ấn Độ từ đầu thập niên 1990, được đưa ra thị trường dưới thương hiệu Saheli. Centchroman chỉ được sử dụng hợp pháp tại Ấn Độ.[cần dẫn nguồn]

Tránh thai khẩn cấp

Một số loại thuốc phối hợp và POPs có thể được dùng với liều cao để tránh có thai sau khi một biện pháp kiểm soát sinh sản đã không thành công (ví dụ rách bao cao su) hay sau một lần quan hệ không có bảo vệ. Thuốc tránh thai khẩn cấp kiểu hormon cũng được gọi là "viên thuốc buổi sáng hôm sau," dù nó được phép sử dụng trong ba ngày sau khi quan hệ.

Các thiết bị trong tử cung cũng có thể được dùng như biện pháp tránh thai khẩn cấp. Để thực hiện mục đích này, chúng phải được đặt vào trong vòng năm ngày từ khi biện pháp kiểm soát sinh sản trước không thành công hay từ khi quan hệ tình dục không bảo vệ.

Tránh thai khẩn cấp hoạt động bằng cách ngăn trứng rụng.[16][17] Tuy nhiên, bởi nó ngăn một quả trứng đã thụ tinh không cấy được vào dưới da[18], một số người[ai nói?] coi nó là một hình thức phá thai. Các chi tiết về các biện pháp hành động có thể hiện vẫn đang được nghiên cứu.

Các biện pháp trong tử cung

Một thiết bị trong tử cung.

Có các thiết bị trong tử cung được đặt vào trong tử cung. Chúng thường có hình như một chữ "T" — các nhánh của chữ T giữ thiết bị ở đúng chỗ. Có hai kiểu tránh thai trong tử cung chính: kiểu có chứa đồng (có khả năng diệt tinh trùng), và kiểu giải phóng một progestogen (ở Hoa Kỳ thuật ngữ progestin được sử dụng).

Các thuật ngữ cho các thiết bị này khác biệt nhau giữa Anh Quốc và Hoa Kỳ. Tại Hoa Kỳ, mọi thiết bị được đặt trong tử cung để ngăn có thai đều được gọi là các thiết bị trong tử cung (IUDs) hay thiết bị tránh thai trong tử cung (IUCDs). Tại Anh Quốc, chỉ các thiết bị có chứa đồng mới được gọi là IUDs (hay IUCDs), và các loại thuốc tránh thai hormon trong tử cung được gọi là Hệ thống trong tử cung (IUS). Điều này có thể bởi vì có mười kiểu IUDs đồng ở Anh Quốc,[19] compared to only one in the US.[20]

Triệt sản

Triệt sản có thể có dưới hình thức thắt ống dẫn trứng cho nữ và thắt ống dẫn tinh cho nam. Triệt sản phải được coi là một biện pháp vĩnh viễn. Với phụ nữ, quá trình này có thể được gọi là "thắt ống dẫn" (tying the tubes), nhưng các ống dẫn trứng có thể được thắt, cắt, kẹp hay chặn lại. Nó giúp ngăn tình trùng không thể gặp trứng chưa thụ tinh. Quá trình Essure không phẫu thuật, là một cách chặn các ống dẫn, trong đó các thiết bị nhỏ được đặt vào trong các ống dẫn trưng bởi một ống thông xuyên qua âm đạo vào cổ tử cung và tử cung.

Dù thắt ống dẫn trứng phải được coi là một quá trình vĩnh viễn, vẫn có thể đảo ngược nó bằng cách nối lại các ống dẫn trứng. Tỷ lệ thành công phụ thuộc vào kiểu tiến hành đã được thực hiện trước đó và những tổn hại đã có với ống dẫn cũng như độ tuổi của người phụ nữ.[21]

Các biện pháp bằng cách cư xử

Các biện pháp theo cách cư xử là kiểm soát thời gian hay biện pháp quan hệ để tránh đưa tinh trùng vào trong hệ sinh sản nữ.

Nhận thức khả năng sinh sản

Các biện pháp dựa trên triệu chứng của nhận thức sinh sản liên quan tới việc người phụ nữ quan sát và lập biểu đồ các dấu hiệu tăng khả năng sinh sản của cơ thể mình, để xác định những chu kỳ dễ có thai và không thể có thai của mình. Việc lập biểu đồ có thể được thực hiện bằng tay hay với sự giúp đỡ của phần mềm. Hầu hết các biện pháp đều theo dõi một hay nhiều hơn trong ba dấu hiệu sinh sản chủ yếu dưới đây:[22] những thay đổi trong nhiệt độ trung bình của cơ thể, trong dịch nhầy cổ tư cung và trong vị trí cổ tử cung. Nếu một phụ nữ theo dõi cả nhiệt độ trung bình cơ thể và một dấu hiệu khác, biện pháp này có thể được gọi là triệu chứng nhiệt. Các dấu hiệu khác của cơ thể như mittelschmerz được coi là dấu hiệu phụ thứ hai.

Các máy giám sát sinh sản là các thiết bị máy tính hoá quyết định khả năng sinh sản hay không sinh sản dựa trên, ví dụ, các thử nghiệm nhiệt độ hay nước tiểu. Các biện pháp dựa theo lịch như biện pháp chu kỳ và Biện pháp Ngày Tiêu chuẩn ước tính khả năng mang thai dựa trên độ dài của các chu kỳ kinh nguyệt cuối cùng. Để tranh mang thai với nhận thức khả năng sinh sản, việc quan hệ tình dục chỉ giới hạn ở những giai đoạn ít có khả năng mang thai nhất. Trong giai đoạn dễ thụ thai, các biện pháp ngăn chặn cần được áp dụng, hay người phụ nữ phải kiêng quan hệ.

Thuật ngữ kế hoạch hoá gia đình tự nhiên (NFP) thỉnh thoảng được sử dụng để chỉ bất kỳ hình thức sử dụng nào với nhận thức khả năng sinh sản. Tuy nhiên, thuật ngữ này chỉ riêng tới những việc áp dụng được Nhà thờ Cơ đốc giáo La Mã cho phép — không thể mang thai khi cho bú, và kiêng khem theo chu kỳ trong những thời gian dễ mang thai. Các biện pháp FA có thể được sử dụng bởi những người dùng NFP để xác định khoảng thời gian dễ mang thai.

Ngừng quan hệ

Coitus interruptus (dịch nghĩa "quan hệ tình dục ngắt quãng"), cũng được gọi là biện pháp xuất tinh ngoài, là việc chấm dứt quan hệ ("rút ra") trước khi phóng tinh. Nguy cơ lớn nhất của việc ngừng quan hệ là người nam có thể không thực hiện chính xác, hay có thể là không đúng thời điểm. Dù có những lo ngại về nguy cơ mang thai do tinh trùng trong dịch tiền xuất tinh, nhiều nghiên cứu nhỏ[4][5] đx không thể tìm thấy tinh trùng trong dung dịch đó.

Tránh quan hệ đường âm đạo

Nguy cơ mang thai từ quan hệ tình dục ngoài âm đạo, như quan hệ tình dục qua đường hậu môn, khẩu dâm, hay quan hệ tình dục không xâm nhập rõ ràng là bằng không[cần dẫn nguồn]. Một nguy cơ rất nhỏ có từ khả năng tinh trùng thẩm thấu vào âm đạo (với khẩu dâm) hay dính vào một vật, như tay, và sau đó tiếp xúc với âm đạo.

Kiêng hoàn toàn

Các nhóm khác nhau định nghĩa thuật ngữ kiêng khem tình dục khác nhau. Khi được sử dụng trong các cuộc thảo luận về kiểm soát sinh sản, thường việc né tránh mọi hoạt động tình dục – hoàn toàn kiêng tình dục – là nghĩa của nó. Thỉnh thoảng mọi người lựa chọn kiêng khem tình dục để giảm nguy cơ mang thai, và việc kiêng khem tình dục có thể được cho vào danh sách các biện pháp kiểm soát sinh sản. Những người kiêng khem tình dục không mang thai ngoài ý muốn.[23] Các nguồn khác thay vào đó lại không coi kiêng khem tình dục là một hình thức kiểm soát sinh sản.[24][25]

Kiêng khem tình dục như một biện pháp lâu dài không có hiệu quả ngăn có thai 100%: không phải mọi người dự định kiêng kem đều có thể tự ngăn mình khỏi hoạt động tình dục,[26] và trong nhiều nhóm dân số có một nguy cơ mang thai rất lớn từ hoạt động tình dục không liên ứng.[27] Nếu là một biện pháp y tế công cộng, ước tính hiệu quả của biện pháp kiêng khem ngang với việc sử dụng bao cao su.[28] Một số cơ quan khuyên rằng những người coi kiêng khem là biện pháp tránh thai chính nên có những biện pháp dự phòng thêm khác (như bao cao su hay thuốc tránh thai khẩn cấp).[29]

Cho bú

Hầu hết phụ nữ đang cho con bú có một giai đoạn không thể mang thai sau khi sinh con. Biện pháp mất kinh khi cho bú, hay LAM, đưa ra những hướng dẫn để xác định độ dài giai đoạn không thể mang thai của một phụ nữ đang cho con bú.

Gây sẩy thai

Ở một số vùng, phụ nữ coi nạo thai là một biện pháp chính yếu để kiểm soát sinh sản. Việc này thường thấy ở Nga,[30] Turkey,[31] và Ukraina.[32] Mặt khác, phụ nữ Canada[33], và những nơi khác[cần dẫn nguồn] nói chung không sử dụng phá thai như biện pháp quản lý sinh sản chính. Phá thai là chủ đề của cuộc tranh cãi đạo đức.

Các biện pháp phá thai bằng phẫu thuật gồm hút thai (được sử dụng ở ba tháng đầu) hay dilation and evacuation (được dùng ở ba tháng tiếp theo). Các biện pháp phá thai y tế liên quan tới việc sử dụng thuốc được uống hay đưa vào theo đường âm đạo để gây ra phá thai. Phá thai y tế có thể được sử dụng nếu thời kỳ mang thai chưa quá 8 tuần.

Một số loại thảo mộc được cho là có khả năng phá thai, và một số cuộc nghiên cứu trên động vật đã thấy rằng nhiều loại thảo mộc có hiệu quả trong việc gây sẩy thai với những động vật không phải loài người.[8][34] Nói chung con người không sử dụng thảo mộc khi có thể sử dụng biện pháp khác, bởi hiệu quả chưa biết và nguy cơ bị ngộ độc.

Các biện pháp đang được phát triển

Cho nữ giới

  • Praneem là một viên âm đạo đa thảo mộc đang được nghiên cứu như một chất diệt tinh trùng, và một chất diệt vi trùng chống HIV.[35]
  • BufferGel is a spermicidal gel being studied as a microbicide active against HIV.[36]
  • Duet là một màng chắn dùng một lần đang được phát triển có thể được cho vào trước với BufferGel.[37] Nó được thiết kế để đưa chất diệt vi trùng vào cả cổ tử cung và âm đạo. Không giống các loại màng chắn đang có hiện nay, Duet sẽ được sản xuất chỉ với một kích thước và không cần phải kê đơn, điều chỉnh, hay tới gặp bác sĩ.[36]
  • Màng chắn SILCS là một màng ngăn bằng silicone vẫn đang được thử nghiệm y tế. Nó có một tay nắm kiểu quai chén ở một đầu để dễ dàng bỏ đi sau khi sử dụng. Giống như Duet, SILCS cũng có một điểm mới là nó chỉ có một kích thước.
  • Một vòng âm đạo đang được phát triển để giải phóng cả estrogen và progesterone, và nó có tác dụng trong thời gian hơn 12 tháng.[38]
  • Hai kiểu vòng âm đạo chỉ progestogen đang được phát triển. Các sản phẩm chỉ Progestogen có thể đặc biệt hữu dụng cho phụ nữ đang cho con bú.[38] Các vòng có thể được sử dụng trong 4 tháng trong một lần.[39]
  • Một biện pháp tránh thai chỉ progesterone đang được phát triển và có thể được xịt lên da mỗi lần một ngày.[40]
  • Triệt sản quinacrine và quá trình Adiana là hai biện pháp kiểm soát sinh sản thường xuyên đang được phát triển.[41]

Cho nam giới

Bài chi tiết: Tránh thai nam

Ngoài bao cao su và xuất tinh ngoài, hiện không có biện pháp tránh thai có thể đảo ngược mà nam giới có thể sử dụng hay kiểm soát. Nhiều biện pháp đang được nghiên cứu và phát triển:

  • Ở thời điểm năm 2007, một hoá chất gọi là Adjudin hiện đang được thử nghiệm trên người ở Giai đoạn II như một loại thuốc tránh thai đường uống cho nam giới.[42]
  • RISUG (Kiềm chế tinh trùng có thể đảo ngược theo hướng dẫn), là một biện pháp tiêm thực nghiệm vào ống dẫn phủ các thành ống dẫn với một chất diệt tinh trùng. Biện pháp này có thể đảo ngược bằng cách rửa thành ống dẫn với một hoá chất thứ hai.
  • Những cuộc thực nghiệm trong tránh thai kiểu làm nghẽn ống dẫn là việc cấy một mô trong ống dẫn.
  • Những cuộc thực nghiệm trong tránh thai dựa trên nhiệt là việc làm nóng tinh hoàn của người đàn ông tới một nhiệt độ trong một khoảng thời gian ngắn.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Kiểm_soát_sinh_sản http://www.abc.net.au/foreign/stories/s1000575.htm http://contraception.about.com/od/contraceptionove... http://uspolitics.about.com/b/2008/08/15/update-re... http://www.womenshealth.about.com/cs/surgery/a/tub... http://ancient-coins.com/articles/silphium/silphiu... http://www.brainphysics.com/research/SexEd_William... http://linkinghub.elsevier.com/retrieve/pii/S00207... http://download.journals.elsevierhealth.com/pdfs/j... http://www.familylife.com/fltoday/default.asp?id=5... http://www.go2planb.com/PDF/PatientPamphlet.pdf